Họ Tên mỗi người theo hán tự sẽ có những nét riêng. Mỗi nét lại mang một ý nghĩa riêng nên khi kết hợp lại họ tên thì sẽ có sự tốt xấu khác nhau. Dưới đây là chi tiết luận giải tên Nguyễn Đức Hoàng theo ý nghĩa số nét trong hán tự. Xem tên Nguyễn Đức Hoàng bạn đặt là tốt hay xấu có hợp phong thủy hợp mệnh tuổi bố mẹ.
Họ Tên mỗi người theo hán tự sẽ có những nét riêng. Mỗi nét lại mang một ý nghĩa riêng nên khi kết hợp lại họ tên thì sẽ có sự tốt xấu khác nhau. Dưới đây là chi tiết luận giải tên Nguyễn Đức Hoàng theo ý nghĩa số nét trong hán tự. Xem tên Nguyễn Đức Hoàng bạn đặt là tốt hay xấu có hợp phong thủy hợp mệnh tuổi bố mẹ.
Trái ngược với thiên cách thì địa cách đại diện cho mối quan hệ giữa mình với vợ con, người nhỏ tuổi hơn mình và người bề dưới. Địa cách chủ yếu ảnh hưởng đến cuộc đời con người từ tuổi nhỏ đến hết tuổi thanh niên, vì vậy nó còn gọi là Địa cách tiền vận. Địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận tuổi mình.
Địa cách tên Nguyễn Đức Hoàng là Đức Hoàng được tính là tổng số nét của Đức (12 nét) + Hoàng (9 nét) = 21 nét thuộc hành Dương Mộc.
Do đó địa cách tên Nguyễn Đức Hoàng thuộc quẻ Độc lập quyền uy là quẻ ĐẠI CÁT. Đây là quẻ có ý nghĩa số vận thủ lĩnh, được người tôn kính, hưởng tận vinh hoa phú quý. Như lầu cao vạn trượng, từ đất mà lên. Nữ giới dùng bất lợi cho nhân duyên, nếu dùng cần phối hợp với bát tự và ngũ hành.
- Chọn số nét Hán tự theo Họ, tên đệm và tên. - Nhấn Luận giải để xem chi tiết luận giải xem tên theo số nét Hán Tự đó tốt hay xấu.
Họ tên Nguyễn Đức Hoàng được chia làm 5 cách, đó là: Thiên, Địa, Nhân, Tổng và Ngoại cách. Ngoài Thiên cách là bất di bất dịch ra, thì các cách còn lại nên chọn dùng số lành, tốt đẹp. Thiên cách là vận thành công của nhân cách. Nhân cách là nền tảng cơ bản của địa cách, chúng nên tương sinh lẫn nhau. Dưới đây là phân tích chi tiết 5 cách theo tên Nguyễn Đức Hoàng của bạn.
Thiên Cách là đại diện cho mối quan hệ giữa mình và cha mẹ, ông bà và người trên. Thiên cách là cách ám chỉ khí chất của người đó đối với người khác và đại diện cho vận thời niên thiếu trong đời.
Thiên cách tên Nguyễn Đức Hoàng là Nguyễn, tổng số nét là 7 và thuộc hành Dương Kim. Do đó Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn là quẻ CÁT. Đây là quẻ có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành.
Tổng cách là chủ vận mệnh từ trung niên về sau từ 40 tuổi trở về sau, còn được gọi là "Hậu vận". Tổng cách được xác định bằng cách cộng tất cả các nét của họ và tên lại với nhau.
Do đó tổng cách tên Nguyễn Đức Hoàng có tổng số nét là 27 sẽ thuộc vào hành Âm Mộc. Do đó tổng cách sẽ thuộc quẻ Tỏa bại trung chiết là quẻ HUNG. Đây là quẻ vì mất nhân duyên nên đứt gánh giữa đường, bị phỉ báng chịu nạn, phiền phức liên miên, vùi đi lấp lại, khó thành đại nghiệp. Rơi vào hình nạn, bệnh tật, u uất, cô độc và có khuynh hướng hiếu sắc.
Số lý họ tên Nguyễn Đức Hoàng của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Âm Kim” Quẻ này là quẻ Tính cứng rắn, ngang ngạnh, cố chấp, bảo thủ, sức chịu đựng cao, ưa tranh đấu, nếu tu tâm dưỡng tính tốt ắt thành người quang minh lỗi lạc. Cách này không hợp với phái nữ.
Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên - Nhân - Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Kim - Âm Kim - Dương Mộc” Quẻ này là quẻ Kim Kim Mộc: Mặc dù thành công và phát triển trong sự nghiệp, nhưrg hay bị tai họa, tranh luận, bất hòa, mất vợ, cuộc đời gặp bất ai phải chú ý đề phòng (hung).
Ngoại cách là đại diện mối quan hệ giữa mình với thế giới bên ngoài như bạn bè, người ngoài, người bằng vai phải lứa và quan hệ xã giao với người khác. Ngoại cách ám chỉ phúc phận của thân chủ hòa hợp hay lạc lõng với mối quan hệ thế giới bên ngoài. Ngoại cách được xác định bằng cách lấy tổng số nét của tổng cách trừ đi số nét của Nhân cách.
Tên Nguyễn Đức Hoàng có ngoại cách là Hoàng nên tổng số nét hán tự là 10 thuộc hành Âm Thủy. Do đó ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ Tử diệt hung ác là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ số vận thủ lĩnh, được người tôn kính, hưởng tận vinh hoa phú quý. Như lầu cao vạn trượng, từ đất mà lên. Nữ giới dùng bất lợi cho nhân duyên, nếu dùng cần phối hợp với bát tự và ngũ hành.
(00:00) Trưởng lão: Hôm nay Thầy về đây, để mà Thầy giải thích cho mấy con nghe cái Phật giáo Nguyên Thủy mấy con. Phật giáo gốc Nguyên Thủy là cái gốc của Phật, cái lời dạy của Phật. Nó không phải của các vị Thầy Tổ họ đã kiến giải, họ đã viết ra, họ làm lệch cái lời của đức Phật. Còn mình đi vào cái Phật giáo Nguyên Thủy tức là mình đi vào ngay cái lời của đức Phật dạy để mình tu tập cho nên gọi là Nguyên Thủy. Tức là cái gốc, cái gốc, cái lời gốc của đức Phật dạy, chứ không còn đi lòng vòng qua những cái lời của những người khác dạy.
Cho nên vì vậy mà kinh sách Đại Thừa, kinh sách Nguyên Thủy. Kinh sách Đại Thừa là kinh sách của các tổ qua kiến giải của mình, viết ra thành ra nó có nhiều cái lệch lạc. Tại vì khi mình tu mình chưa có đủ kinh nghiệm để làm chủ sự sống chết của mình sinh, già, bệnh, chết. Rồi mình viết ra theo cái hiểu của mình, cái nghĩ của mình, cái tu chưa tới thành ra nó làm lệch đi, nó làm lệch đi.
Cho nên vì vậy mà Thầy không dạy về cái phương pháp mà của kinh sách Đại Thừa dạy, mà dạy cái lời gốc của Phật dạy, tức là lời Nguyên Thủy. Cho nên Phật giáo dường như là người ta tự người ta chia ra, người ta chia ra hai cái phe, hai cái phái. Cái phái Nam Tông và phái Bắc tông. Bắc tông thì nó thuộc về kinh sách Đại Thừa của các tổ viết ra, còn cái phái Nam Tông là dựa vào cái lời của Phật dạy nhưng rồi các tổ của Nam Tông cũng kiến giải ra, kiến giải ra dạy thành ra nó cũng sai.
Thí dụ như cái pháp Tứ Niệm Xứ, mấy con còn là người cư sĩ mà nghe nói pháp Tứ Niệm Xứ thì mấy con cũng đến cái trường hoặc một cái trường tu tập, cái trường lớp tu tập dạy về Tứ Niệm Xứ, rồi mấy con cũng tu tập Tứ Niệm Xứ thì mấy con tu không bao giờ tới đâu được cả.
(1:55) Tứ Niệm Xứ là cái phương pháp cuối cùng để chứng đạo, cái phương pháp cuối cùng. Mấy con chỉ có người cư sĩ của mấy con chỉ có tu tập cái pháp Tứ Chánh Cần, pháp Tứ Chánh Cần. Nhưng mà trước khi mà tu Tứ Chánh Cần mà mấy con sống mà một ngày mấy con còn ăn ba, bốn bữa thì mấy con tu cũng không vô đâu, không vô. Bởi vì cái tâm mình chưa có làm chủ được cái ăn, chưa làm chủ được cái ngủ.
Mấy con thấy cái ăn nó dễ, bây giờ ráng cố gắng khắc phục, ráng tập ăn ngày một bữa mấy con ăn dễ, nhưng cái ngủ mấy con không phải dễ đâu mấy con. Mấy con thử mấy con cố gắng mấy con tu đi, một buổi giờ ba tiếng đồng hồ đi.
Một buổi ví dụ như 7 giờ sáng mấy con tu tới 10 giờ là ba tiếng, rồi mấy con nghỉ, nghỉ ăn cơm này kia rồi xong rồi tới 2 giờ mấy con tu tập cho đến 5 giờ, mấy con xả nghỉ, rồi tối mấy con 7 giờ tối mấy con tu tới 10 giờ, rồi tới 2 giờ khuya mấy con dậy mấy con tu cho tới 5 giờ mấy con xả ra. Thời nào mấy con cũng tu 3 tiếng, 3 tiếng, thì mấy con sẽ thấy hôn trầm thùy miên nó đánh mấy con ghê gớm.
(3:00) Cho nên vì vậy mà đức Phật dạy cho chúng ta có một cái Pháp để mà phá sạch hôn trầm, thùy miên những người mới tu. Mấy con là người cư sĩ mới vào tu, thì mấy con phải tập Chánh Niệm Tỉnh Giác, tức là đi kinh hành chứ không có gì hết mấy con. Đi mình biết mình đi thôi, tức là mình đi vòng vòng mình biết mình đi, đó là Chánh Niệm Tỉnh Giác.